Luật góp phần tạo môi trường minh bạch, thúc đẩy thị trường công nghệ số lành mạnh
Luật Công nghiệp công nghệ số còn góp phần tạo cơ chế, chính sách ưu đãi và hỗ trợ để doanh nghiệp trong nước có thêm cơ hội phát triển, tham gia bình đẳng hơn trên thị trường công nghệ số, đồng thời khuyến khích môi trường kinh doanh minh bạch, lành mạnh. Theo đó, mọi tổ chức, cá nhân tham gia thị trường – không phân biệt quy mô hay hình thức sở hữu – đều phải tuân thủ pháp luật về đầu tư, thuế, đất đai và các quy định có liên quan, bảo đảm trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ với Nhà nước.

Đồng thời, các lĩnh vực trọng điểm như trí tuệ nhân tạo, chip bán dẫn, trung tâm dữ liệu trí tuệ nhân tạo hay sản xuất phần mềm được áp dụng cơ chế ưu đãi và hỗ trợ đầu tư đặc biệt (Điều 28 khoản 2), tạo cơ hội cho doanh nghiệp nội địa có thêm điều kiện phát triển, từng bước thu hẹp khoảng cách với các tập đoàn công nghệ xuyên biên giới. Cách tiếp cận này góp phần hình thành một “sân chơi” minh bạch, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và nâng cao năng lực cạnh tranh của toàn ngành công nghiệp công nghệ số.
Bảo vệ doanh nghiệp nội địa
Luật có nhiều chính sách ưu đãi đầu tư, hỗ trợ nghiên cứu – phát triển và khởi nghiệp đổi mới sáng tạo (Điều 28, Điều 29), nhằm giúp doanh nghiệp trong nước tăng cường năng lực cạnh tranh và tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị công nghệ số. Các quy định về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ R&D trong các lĩnh vực trí tuệ nhân tạo, bán dẫn được thực hiện theo pháp luật về đầu tư, thuế và đất đai, tạo thêm điều kiện cho doanh nghiệp Việt nâng cao sức cạnh tranh với các tập đoàn quốc tế. Luật đồng thời định hướng phát triển hạ tầng số và trung tâm dữ liệu hiện đại (Điều 25, Điều 26), qua đó tạo nền tảng cho doanh nghiệp mở rộng quy mô và nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo.
Ở khía cạnh nhân lực, luật yêu cầu doanh nghiệp tham gia vào chính sách phát triển nhân lực và hợp tác đào tạo, đồng thời phối hợp với cơ sở đào tạo để chuẩn hóa kỹ năng lao động. Đây là cơ chế vừa hỗ trợ doanh nghiệp nội địa giải quyết bài toán thiếu hụt nhân lực, vừa tạo ra lợi thế cạnh tranh dài hạn khi tham gia chuỗi cung ứng công nghệ toàn cầu.
Những thách thức trong quản lý cạnh tranh số
Khung pháp lý mới được kỳ vọng sẽ tạo môi trường môi trường minh bạch, thuận lợi hỗ trợ cạnh tranh lành mạnh cho các chủ thể tham gia thị trường. Tuy nhiên, thực tiễn quốc tế cũng cho thấy việc bảo đảm cân bằng lợi ích giữa các doanh nghiệp lớn và vừa, nhỏ trong lĩnh vực công nghệ số luôn là một bài toán phức tạp. Các tập đoàn có lợi thế về dữ liệu, vốn và công nghệ thường chiếm ưu thế, trong khi doanh nghiệp nhỏ cần thêm cơ chế hỗ trợ để phát triển ổn định, bền vững.

Luật Công nghiệp công nghệ số đã đặt nền tảng với những nguyên tắc rõ ràng về quản lý, phát triển và bảo đảm chất lượng dữ liệu số (Điều 26, Điều 27), góp phần gián tiếp tạo môi trường minh bạch và thuận lợi cho hoạt động của doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp công nghệ số. Song, để các quy định đi vào thực tiễn hiệu quả, rất cần sự phối hợp liên ngành trong công tác quản lý, nâng cao năng lực giám sát cũng như sự đồng hành chủ động từ chính cộng đồng doanh nghiệp. Nhờ vậy, luật sẽ phát huy đúng vai trò là công cụ pháp lý hỗ trợ cạnh tranh lành mạnh và thúc đẩy hệ sinh thái công nghệ số phát triển ổn định.
Luật Công nghiệp công nghệ số mở ra kỳ vọng về một môi trường cạnh tranh công bằng, nơi doanh nghiệp nội địa có cơ hội phát triển song song với sự hiện diện của các tập đoàn toàn cầu. Tuy vậy, để luật thực sự phát huy hiệu quả, cần chú trọng khâu thực thi, giám sát và có sự phối hợp chặt chẽ với Luật Cạnh tranh trong việc ngăn ngừa hành vi lạm dụng vị thế thống lĩnh và bảo đảm môi trường cạnh tranh công bằng. Chỉ khi “luật đi vào cuộc sống”, Việt Nam mới có thể khai thác tối đa tiềm năng kinh tế số, đồng thời bảo đảm sự phát triển minh bạch, công bằng và ổn định cho toàn bộ hệ sinh thái công nghệ./.
Tài liệu tham khảo
[1] Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2025), Luật Công nghiệp công nghệ số, số 71/2025/QH15, thông qua ngày 14/6/2025, có hiệu lực từ 1/1/2026.
[2] Bộ Chính trị (2024), Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 10/4/2024 về phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn 2045.
[3] Thủ tướng Chính phủ (2020), Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 phê duyệt Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.
[4] Bộ Thông tin và Truyền thông (2024), Báo cáo Kinh tế số Việt Nam 2024.
[5] OECD (2023), Digital Competition in Emerging Economies.